Vi phạm các quy định về quản lý đất đai theo pháp luật hình sự là hành vi xâm phạm tới trật tự quản lý của Nhà nước về đất đai của những người có chức vụ, quyền hạn. Hãy cùng bài viết tìm hiểu về xử lý hình sự đối với tội vi phạm quản lý về đất đai nhé.
Thế nào là vi phạm quản lý, sử dụng đất đai
Dựa trên các quy định về quản lý, sử dụng đất đai, có thể hiểu vi phạm quản lý, sử dụng đất đai là hành vi của những người có chức vụ, quyền hạn trong lĩnh vực quản lý về đất đai đã lạm dụng hay lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để thực hiện việc giao đất, thu hồi đất như thu hồi đất nhưng không thực hiện việc bồi thường cũng như hỗ trợ tái định cư, cho thuê hay cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất một cách trái pháp luật trái pháp luật; là hành vi của người sử dụng đất đã có hành vi lấn chiếm đất, chuyển quyền sử dụng đất hoặc sử dụng đất trái phép so với quy định của pháp luật đất đai về việc quản lý cũng như sử dụng đất đai.
Yếu tố cấu thành tội vi phạm quản lý, sử dụng đất đai
Để xác định một cá nhân có phạm tội vi phạm quản lý về đất đai thì theo pháp luật hình sự cần phải xác định thỏa mãn đủ cả 4 yếu tố cấu thành sau:
Một là, khách thể của tội phạm vi phạm quản lý về đất đai . Tội phạm vi phạm quản lý về đất đai xâm phạm tới trật tự quản ký kinh tế mà cụ thể là xâm phạm tới chế độ quản lý của nhà nước về đất đai.
Hai là, chủ thể của tội phạm. Tội phạm vi phạm quản lý về đất đai là một trong những tội có dấu hiệu của chủ thể đặc biệt. Chủ thể ở đây phải là người mà có chức vụ, quyền hạn trong quản lý Nhà nước về đất đai như trong Ủy ban nhân dân, Sở, phòng Tài nguyên và Môi trường.
Ba là, về mặt chủ quan của tội phạm. Người phạm tội có lỗi cố ý khi thực hiện hành vi phạm tội phạm vi phạm quản lý về đất đai. Theo đó, người phạm tội vi phạm quản lý về đất đai đã nhận thức rõ hành vi của mình là hành vi nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả của hành vi phạm tội nhưng lại vẫn thực hiện hành vi đó.
Bồn là, mặt khách quan của tội vi phạm quản lý về đất đai thể hiện ở hành vi lợi dụng hay lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao trong quản lý Nhà nước về đất đai để thực hiện các hành vi vi phạm các quy định về quản lý đất đai như sau:
- Giao đất, thu hồi hay cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái với các quy định của pháp luật về đất đai đối với loại đất trồng lúa có diện tích từ 5.000 mét vuông (m2) trở lên; đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ hay rừng sản xuất đạt diện tích từ 10.000 mét vuông (m2) trở lên; loại đất nông nghiệp khác và loại đất phi nông nghiệp có diện tích từ 10.000 mét vuông (m2) trở lên;
- Giao đất, thu hồi hay cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái với các quy định của pháp luật về đất đai đối với loại đất có giá trị quyền sử dụng đất mà được quy thành tiền từ 500.000.000 đồng trở lên đối với loại đất nông nghiệp hoặc từ 1.000.000.000 đồng trở lên đối với loại đất phi nông nghiệp;
- Trong trường hợp người phạm tội đã thực hiện một trong những hành vi phạm tội phạm vi phạm quản lý về đất đai kể trên như thu hồi đất đai trái pháp luật, cho thuê đất trái pháp luật…với định mức về diện tích đất, giá trị quyền sử dụng đất thấp hơn quy định được kể trên nhưng đã bị xử lí kỉ luật về một trong các hành vi đó mà còn vi phạm. Có nghĩa là, người phạm tội trước đó đã bị cơ quan có thẩm quyền xử lý kỉ luật về hành vi vi phạm quy định về quản lý đất đai nhưng theo luật định chưa hết thười hạn được coi là chưa bị xử lý kỉ luật mà vẫn thực hiện hành vi vi phạm đó.
Như vậy, việc hiện các hành vi phạm tội vi phạm quản lý về đất đai trên của những người có chức vụ cũng như quyền hạn vừa xâm phạm tới trật tự quản lý kinh tế nói chung vừa gây nên những ảnh hưởng tiêu cực đối với môi trường, đặc biệt là vấn đề xâm phạm bảo vệ rừng và động vật hoang dã.
Quy định pháp luật về tội vi phạm quản lý, sử dụng đất đai
Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai được quy định cụ thể tại Điều 229 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 bao gồm 4 khoản xử lý trách nhiệm hình sự trong đó 3 khoản quy định các hình phạt chính và 1 khoản quy định hình phạt bổ sung. Cụ thể nội dung quy định như sau:
“ Điều 229. Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai
1. Người nào lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái quy định của pháp luật thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đất trồng lúa có diện tích từ 5.000 mét vuông (m2) đến dưới 30.000 mét vuông (m2); đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 50.000 mét vuông (m2); đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có diện tích từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 40.000 mét vuông (m2);
b) Đất có giá trị quyền dụng đất được quy thành tiền từ 500.000.000 đồng đến dưới 2.000.000.000 đồng đối với đất nông nghiệp hoặc từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng đối với đất phi nông nghiệp;
c) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Đất trồng lúa có diện tích từ 30.000 mét vuông (m2) đến dưới 70.000 mét vuông (m2); đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích từ 50.000 mét vuông (m2) đến dưới 100.000 mét vuông (m2); đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có diện tích từ 40.000 mét vuông (m2) đến dưới 80.000 mét vuông (m2);
c) Đất có giá trị quyền dụng đất được quy thành tiền từ 2.000.000.000 đồng đến dưới 7.000.000.000 đồng đối với đất nông nghiệp hoặc từ 5.000.000.000 đồng đến dưới 15.000.000.000 đồng đối với đất phi nông nghiệp;
d) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:
a) Đất trồng lúa có diện tích 70.000 mét vuông (m2) trở lên; đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất có diện tích 100.000 mét vuông (m2) trở lên; đất nông nghiệp khác và đất phi nông nghiệp có diện tích 80.000 mét vuông (m2) trở lên;
b) Đất có giá trị quyền sử dụng đất được quy thành tiền 7.000.000.000 đồng trở lên đối với đất nông nghiệp hoặc 15.000.000.000 đồng trở lên đối với đất phi nông nghiệp.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.
Khung hình phạt đối với tội vi phạm quản lý, sử dụng đất đai
Tội vi phạm quản lý về đất đai được quy định tương ứng với 4 khoản là 4 khung hình phạt truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội theo tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội như sau:
– Khung hình phạt 1: phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng tới 03 năm đối với cấu thành tội phạm cơ bản của tội phạm vi phạm quản lý về đất đai .
– Khung hình phạt 2: phạt tù từ 02 năm đến 07 năm đối với cấu thành tội phạm tăng nặng theo khoản 2.
– Khung hình phạt 3: phạt tù từ 05 năm đến 12 năm đối với trường hợp theo khoản 3.
– Khung hình phạt 4: quy định các hình phạt bổ sung mà người phạm tội còn có thể bị áp dụng mức phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ hay cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm tới 05 năm.
Trên đây là những thông tin tư vấn về quy định của pháp luật hình sự về xử lý hình sự đối với tội vi phạm quy định về quản lý đất đai mà bạn cần biết. Nếu các bạn có bất cứ thắc mắc nào thì đừng quên liên hệ tới Luật hình sự để được giải đáp kịp thời nhé./