Năng lực trách nhiệm hình sự là các năng lực nhận thức cùng với được ý nghĩa xã hội của hành vi của mình, điều khiển được hành vi đó theo đòi hỏi của xã hội. Cùng luật để có thể hiểu thêm về các trách nhiệm hình sự nhé!

Năng lực trách nhiệm hình sự là gì?
Năng lực trách nhiệm hình sự là các năng lực có thể sẽ phải chịu các trách nhiệm hình sự của một người nếu mà họ thực hiện hành vi phạm tội. Năng lực trách nhiệm hình sự cũng là một dạng năng lực pháp lí. Nhà nước xác nhận các năng lực này dựa trên cơ sở:
Thứ nhất là người có các trách nhiệm hình sự phải là người có các năng lực nhận thức cùng với các năng lực điều khiển các hành vi theo đòi hỏi của xã hội.
Thứ hai là người có các trách nhiệm hình sự là người phải có độ tuổi phù hợp với các chính sách hình sự của nhà nước trong các giai đoạn cụ thể.
Cơ sở thứ nhất là đảm bảo các chủ thể của tội phạm là người có các năng lực để có thể có lỗi khi mà họ thực hiện hành vi sẽ gây thiệt hại cho xã hội. Còn với cơ sở thứ hai đó là cần thiết để có thể thể hiện các chính sách hình sự nhà nước đối với những người chưa đủ 18 tuổi cùng với có các hành vi cùng với có tính gây thiệt hại cho xã hội.
Điều kiện của người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự
Người có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ là họ phải thỏa mãn các điều kiện về độ tuổi cùng với năng lực nhận thức và các năng lực về điều khiển hành vi của mình.
Về năng lực nhận thức cùng với năng lực điều khiển các hành vi thì theo điều 21 của bộ luật hình sự năm 2015 có sửa đổi cùng với bổ sung năm 2017, đó là người đang trong các tình trạng không có trách nhiệm hình sự khi mà người đó đang mắc các bệnh như tâm thần cùng với một số các bệnh khác và làm mất đi các khả năng nhận thức hay các khả năng điều khiển cho các hành vi của mình.
Về độ tuổi thì điều 21 của bộ luật hình sự năm 2015 đã có sửa đổi cùng với bổ sung năm 2017 thì có quy định đối với từng các mức độ sẽ như sau:
Người từ đủ 16 tuổi thì sẽ phải chịu mọi loại các trách nhiệm hình sự, nghĩa họ là phải chịu các hình phạt tương ứng với hành vi cùng phạm tội của mình.
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới người 16 tuổi chỉ chỉ phải chịu các trách nhiệm về hình sự về các tội phạm rất nghiêm trọng cùng với các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng trong các tội phạm được quy định.
Theo bộ luật Hình sự đối với người dưới 14 tuổi thì sẽ miễn trách nhiệm hình sự cùng với hành vi mà mình thực hiện. Tuy nhiên thì đối với một số các vụ án hình sự có các yếu tố dân sự cùng với tương ứng với các hành vi cùng hậu quả thì người giám hộ, người thực hiện cần phải chịu trách nhiệm dân sự tương ứng.

Người không có năng lực trách nhiệm hình sự
Người thực hiện hành các vi gây nguy hiểm cho xã hội trong khi mà đang mắc bệnh tâm thần hay là một số các bệnh khác làm mất đi các khả năng nhận thức hay các khả năng điều khiển hành vi của mình thì người đó không phải chịu các trách nhiệm hình sự, đối với người này thì cần phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh và đơn xin miễn trách nhiệm hình sự.
Người phạm tội trong khi có các trách nhiệm hình sự nhưng mà đã lâm vào các tình trạng quy định tại khoản 1 điều này trước khi bị kết án thì cũng được áp dụng các biện pháp bắt buộc cùng với chữa bệnh. Nhưng sau khi mà khỏi bệnh thì người đó có thể sẽ phải chịu các trách nhiệm hình sự.
Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự. Năng lực trách nhiệm hình sự là các khả năng của một người mà khi người đó thực hiện các hành vi gây nguy hiểm cho xã hội cùng với nhận thức được với các tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi mình cùng với điều khiển được các hành vi ấy. Nếu mà một người thực hiện được các hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, tuy nhiên họ lại không nhận thức được các hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội cùng với nhận thức được nhưng mà không điều khiển được các hành vi thì đó là người không có các trách nhiệm hình sự.
Như vậy các tiêu chuẩn hay là các dấu hiệu để có thể xác định được một người không có các trách nhiệm hình sự là mắc bệnh theo các tiêu chuẩn y học cùng với tâm lý, họ mất các khả năng về nhận thức hay các khả năng điều khiển. Cả hai dấu hiệu này thì đều có các mối liên quan chặt chẽ với nhau, cái này là thì là tiền đề của cái kia cùng với ngược lại. Một người vì mắc bệnh nên họ mất các khả năng điều khiển cùng với họ bị mất các khả năng điều khiển vì họ mắc bệnh.
Một người bị mắc bệnh tâm thần hay là một bệnh làm mất đi các khả năng nhận thức thì phải được các hội đồng giám định tâm thần xác định cùng với kết luận. Ở Việt Nam thì ngành tâm thần học mới ra đời tuy nhiên thì cũng đã đạt được các kết quả nhất định. Tuy nhiên thì cho đến nay, các kiến thức về tâm thần học trong nhân dân cùng với đội ngũ cán bộ y tế còn hạn chế, chưa thể đáp ứng được các sự đòi hỏi về phòng cùng với chữa bệnh tâm thần cũng là như việc xác định được các năng lực trách nhiệm hình sự đối với những người mắc bệnh tâm thần cùng với thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Ví dụ về năng lực trách nhiệm hình sự
Ví dụ là người mắc bệnh tâm thần bỗng nhiên lao vào đánh đập với một người mà họ đã cho rằng đó là người sẽ gây nguy hiểm cho họ hoặc là trường hợp đối với người mắc bệnh dại bỗng nhiên có các hành vi gây hỏa hoạn…thì đối với những người này, tuy là sẽ không bị truy cứu về các trách nhiệm nhưng họ vẫn phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
Hy vọng bài viết của Luật hình sự về năng lực trách nhiệm hình sự là gì? Trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự sẽ mang lại cho bạn rất nhiều các thông tin hữu ích cũng với cần thiết, bổ ích với bạn, giúp bạn có thể hiểu rõ về luật hơn.