Khi mà nghiên cứu một văn bản pháp luật nói chung hoặc là văn bản về luật hình sự nói riêng. Chúng ta sẽ luôn cần quan tâm đến hiệu lực (hoặc giá trị về pháp lý) của những văn bản pháp luật đó. Vậy nên hiệu lực của luật hình sự sẽ được hiểu như thế nào? Cùng luật hình sự tìm hiểu hiệu lực của BLHS 2015 ở bài viết ngay dưới đây nhé!

Hiệu lực của BLHS 2015
Hiệu lực của luật hình sự sẽ là giá trị thi hành của luật hình sự mà đối với những tội phạm nên nó sẽ phải gắn với những hành vi phạm tội. Nói đến hiệu lực của luật hình sự sẽ là việc là nói đến hiệu lực của luật đối với những hành vi mà phạm tội xảy ra khi nào ( hiệu lực về mặt thời gian) và đối với những hành vi phạm tội xảy ra ở đâu (hiệu lực về mặt không gian), hiệu lực của BLHS 2015.
Hiệu lực của BLHS 2015 về không gian
Khoản 1 của Điều 5 BLHS đã có quy định về hiệu lực về không gian theo những nguyên tắc về lãnh thổ. Theo những nguyên tắc này thì BLHS sẽ có những hiệu lực đối với mọi hành vi mà phạm tội và sẽ được thực hiện“trên lãnh thổ của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam”.
Bổ sung cho những nguyên tắc này, thì khoản 1 của điều 5 đã quy định: BLHS cũng sẽ có hiệu lực đối với những hành vi mà phạm tội hoặc có thể là những hậu quả của nó xảy ra “trên tàu bay, tàu biển mang quốc tịch Việt Nam hoặc tại vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam”, hiệu lực của BLHS 2015.
Những quy định trên sẽ cần được hiểu cụ thể và sẽ dựa trên về những chế độ pháp lí của từng bộ phận mà thuộc lãnh thổ cũng như là những bộ phận mà không thuộc lãnh thổ nhưng mà sẽ thuộc quyền chủ quyền của Việt Nam. Theo Điều 1 của Hiến pháp Việt Nam thì lãnh thổ của Việt Nam “… bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biến và vùng trời”. Trong đó thì vùng biển sẽ được hiểu gồm nội thuỷ cùng với lãnh hải (Luật biển của Việt Nam sử dụng từ tàu thuyền mà lại không sừ dụng từ tàu biển. Cách sử dụng trong Luật biển Việt Nam sẽ có thể phù hợp hơn và về những nội thủy cùng với lại lãnh hải, bạn có thể xem thêm về các điều 9 cùng với 10 của Luật biển Việt Nam). Do lãnh hải có những chế độ pháp lí tương đối đặc biệt so với lại những bộ phận mà hợp thành khác nên là khi mà xác định về hiệu lực về không gian đối với những tội phạm xảy ra trên lãnh hải sẽ cần chú ý về Điều 30 của Luật biển Việt Nam cũng như là về Điều 27 của Công ước của Liên hợp quốc về luật biển. Tương tự như vậy nên khi mà xác định hiệu lực về không gian hoặc có thể là đối với những tội phạm xảy ra tại vùng đặc quyền kinh tế cùng với lại thềm lục địa của nước Việt Nam, hiệu lực của BLHS 2015.
Bổ sung cho những quy định về hiệu lực về không gian tại khoản 1 của Điều 5 BLHS và với khoản 2 của Điều 5 BLHS đã có những quy định về phạm vi với những người nước ngoài mà có phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam những mà không bị xử lí theo BLHS Việt Nam. Đó sẽ là những người nước ngoài “… thuộc các đối tượng mà được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao hoặc có thể là lãnh sự theo pháp luật của Việt Nam, theo những điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là thành viên hoặc có thể là theo tập quán quốc tế…”, điểm mới của BLTTHS 2015.
Hiệu lực của BLHS 2015 về thời gian

Khoản 1 của Điều 7 BLHS đã quy định: “Điều luật mà đã được áp dụng đối với một hành vi phạm tội sẽ là điều luật mà đang có hiệu lực thi hành tại những thời điếm mà hành vi phạm tội sẽ được thực hiện. ” Với những quy định này thì những điều luật hình sự cũng như là BLHS nói chung sẽ chỉ có hiệu lực đối với tội phạm xảy ra sau khi điều luật cùng với bộ luật mà có hiệu lực thi hành. Ở đây sẽ cần có sự phân biệt giữa điều luật cùng với bộ luật vì có thể sẽ có những điều luật mà được bổ sung cùng với lại sửa đổi sau khi mà BLHS đã có hiệu lực thi hành và như vậy nên giữa thời điểm mà BLHS có hiệu lực thi hành với những thời điểm cùng với những điều luật mà được bổ sung, sửa đổi cùng với có hiệu lực thi hành sẽ có sự khác nhau, hiệu lực của BLHS 2015.
Theo khoản 2 của Điều 7 BLHS thì những điều luật mà có nội dung quy định sẽ không có lợi cho những người mà phạm tội đều sẽ không có hiệu lực trở về trước. Đó sẽ là “Điều luật quy định một tội phạm mới cùng với lại một hình phạt nặng hơn cùng với lại một tình tiết tăng nặng mới hoặc có thể là hạn chế về phạm vi áp dụng án treo cùng với miễn TNHS, loại trừ TNHS cùng miễn hình phạt cùng giảm hình phạt, xoá án tích cùng với quy định khác không có lợi cho những người mà phạm tội…” (khoản 2 Điều 7 BLHS).
Theo khoản 3 của Điều 7 BLHS, những điều luật mà có nội dung cùng với việc có lợi cho những người phạm tội được phép có hiệu lực trở về trước. Đó sẽ là: “Điều luật xoá bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng, quy định một hình phạt nhẹ hơn, một tình tiết giảm nhẹ mới hoặc mở rộng phạm vi áp dụng án treo, miễn TNHS, loại trừ TNHS, miễn hình phạt, giảm hình phạt, tha tù trước thời hạn có điều kiện, xoá án tích và quy định khác có lợi cho người phạm tội… ” (khoản 3 Điều 7 BLHS).
Quyền miễn trừ ngoại giao hoặc có thể là lãnh sự gồm nhiều quyền mà khác nhau. Khoản 2 của điều luật sẽ chỉ nói đến quyền miễn trừ ngoại giao hoặc có thể là lãnh sự nói chung nhưng sẽ cần phải hiểu về đối tượng được nêu tại những khoản này chỉ là những người mà sẽ được hưởng về quyền miễn trừ xét xử về hình sự. Hiện nay thì văn bản mà quy phạm pháp luật của Việt Nam về những vấn đề này sẽ là Pháp lệnh về quyền ưu đãi cùng với việc miễn trừ dành cho những cơ quan đại diện ngoại giao cùng với lại những cơ quan lãnh sự, cơ quan về đại diện của những tổ chức quốc tế tại Việt Nam.