Bức cung bị coi là hành vi trái pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm và rất cần được lên án. Bài viết này Luật hình sự sẽ lý giải tại sao bức cung được xem là hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự và những quy định của pháp luật về tội bức cung.
Khái niệm bức cung
Bức cung được hiểu là hành vi của những người tiến hành tố tụng (là người có trách nhiệm lấy lời khai trong hoạt động tư pháp) khi sử dụng các biện pháp trái pháp luật (tức là các thủ đoạn khác nhau không đúng với quy định của pháp luật) về tố tụng để ép buộc, cưỡng ép người bị thẩm vấn, bị lấy lời khai phải khai sai với sự thật khách quan của vụ án đó, khai sai những điều họ biết.
Yếu tố cấu thành tội bức cung
Tương tự như các tội phạm thông thường khác, tội bức cung cũng có 04 yếu tố cấu thành tội phạm cơ bản, cụ thể như sau:
– Mặt khách quan của tội phạm:
- Về hành vi khách quan: người phạm tội đã có hành vi sử dụng các thủ đoạn, biện pháp không đúng với quy định của pháp luật để ép buộc, cưỡng ép người bị lấy lời khai hay người bị hỏi cung phải khai không đúng sự thật khách quan các tình tiết của vụ án. Thủ đoạn, biện pháp không đúng với quy định của pháp luật được hiểu là những phương pháp, cách thức bị pháp luật cấm hoặc pháp luật không quy định là được phép dùng như đe dọa sẽ xử phạt nặng hơn hay đe dọa sẽ giam lâu, sử dùng nhục hình hoặc thủ đoạn hỏi cung liên tục vào ban đêm để gây sức ép cho người bị hỏi cung,… Nhìn chung, những thủ đoạn chúng tôi nêu trên thường chỉ để uy hiếp, gây ức chế hoặc làm khủng hoảng tinh thần của người bị hỏi cung chứ không có tác động vào thân thể như quy định của tội nhục hình. Những thủ đoạn đó buộc người bị thẩm vấn, hỏi cung phải khai không đúng những gì đã diễn ra trên thực tế (có thể là nói sai sự thật hoặc là nói thêm thắt sự việc khác vào nhằm đạt được mục đích của người thẩm vấn…)
- Về hậu quả của tội phạm: Hậu quả ở đây phải là những hậu quả nghiêm trọng thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chẳng hạn như gây ra hậu quả là Tòa án xét xử oan sai, để lọt, bỏ xót tội phạm, hoặc gây ra thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của tổ chức, công dân, thâm chí là còn có thể gây ra dư luận xấu, gây tình trạng bất bình trong cộng đồng hoặc một bộ phận người dân địa phương,…
- Mỗi quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Tức là hành vi khách quan nêu trên phải là nguyên nhân chủ yếu gây ra hậu quả thiệt hại đó. Đây là một dấu hiệu của cấu thành cơ bản của tội bức cung theo quy định của pháp luật hình sự.
– Khách thể của tội phạm: Tội bức cung đã xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan có thẩm quyền: cơ quan điểu tra, Viện kiểm sát, Tòa án và xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
– Mặt chủ quan của tội bức cung: lỗi ở đây là lỗi cố ý.
– Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội danh này là những người có thẩm quyền, hoạt động trong các cơ quan tiến hành tố tụng gồm Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm (Hội thẩm nhân dân hoặc Hội thẩm quân nhân), Thư ký Tòa án và những người cán bộ giúp việc khác.
Quy định pháp luật tội bức cung
- Tội bức cung được quy định tại Điều 374 BLHS 2015 với năm khung hình phạt có thể bị áp dụng, cụ thể như sau:
– Khung một (khoản 1) là khung hình phạt cơ bản: người phạm tội (có đủ các dấu hiệu cấu thành cơ bản nêu ở mặt khách quan và chủ quan của tội bức cung) sẽ phải chịu hình phạt tù từ 06 tháng – 03 năm.
– Khung hai (khoản 2) là khung hình phạt tăng nặng thứ nhất, người phạm tội sẽ bị phạt tù từ 02 năm – 07 năm, áp dụng có các trường hợp phạm tội từ 02 lần trở lên; phạm tội với từ 02 người trở lên; phạm tội với người dưới 18 tuổi, phụ nữ biết có thai, người già yếu, người khuyết tật nặng hoặc đặc biệt nặng; sử dụng nhục hình, đối xử tàn bạo, hạ nhục nhân phẩm; sử dụng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt; làm sai lệch kết quả của quá trình tố tụng; buộc người bị lấy lời khai khai sai sự thật.
– Khung ba (khoản 3) là khung tăng nặng thứ hai, người phạm tội sẽ bị phạt tù từ 07 năm – 12 năm, áp dụng cho các trường hợp làm người bị bức cung phải tự sát; dẫn đến bỏ lọt tội phạm ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng; người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc là tội phạm nghiêm trọng.
– Khung 4 (khoản 4) là khung hình phạt nặng nhất, người phạm tội sẽ bị phạt tù từ 12 năm – 20 năm hoặc tù chung thân nếu làm người bị bức cung chết; hoặc dẫn đến làm oan người vô tội; hoặc dẫn đến bỏ lọt tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng; người thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
– Khung 5 (khoản 5) là khung hình phạt bổ sung. Ngoài những hình phạt chính nêu trên thì người phạm tội còn có thể bị Tòa án áp dụng các hình phạt bổ sung khi xét thấy cần thiết như cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề từ 01 năm – 05 năm.
Trên đây là những chia sẻ của chúng tôi về quy định của pháp luật đối với tội bức cung. Hy vọng những kiến thức trên sẽ bổ ích với bạn. Ngoài ra, bạn có thể tham khảo thêm các tội danh liên quan như tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ, tội bắt giữ người trái pháp luật để có thêm kiến thức. Chúc bạn thành công!