Biên bản điều tra là một văn bản tụng trong giải quyết vụ án hình sự được lập theo quy định của pháp luật phải ghi lại đầy đủ tất cả nội dung diễn ra trong quá trình thực hiện hoạt động điều tra. Bài viết sau đây, Luật hình sự sẽ phân tích quy định của tố tụng hình sự về biên bản điều tra.

Biên bản điều tra là gì?
Hoạt động điều tra vụ án hình sự là một hoạt động có mục đích nhằm tìm ra sự thật khách quan, thu thập cũng như củng cố và kiểm tra chứng cứ có trong vụ án hướng đến phục vụ quá trình khám phá, phát hiện tội phạm. Trong quá trình này, biên bản điều tra phải được lập theo đúng quy định của pháp luật. Biên bản điều tra là văn bản tố tụng được lập dựa theo quy định chung, ghi lại một cách đầy đủ, trung thực nội dung cũng như trình tự diễn biến các hoạt động điều tra đã tiến hành như: hoạt động hỏi cung; lấy lời khai, bắt, khám xét hoặc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi; hay xem xét dấu vết trên thân thể; thực nghiệm điều tra; hay đối chất; nhận dạng… Theo quy định của Điều 102 Bộ luật tố tụng hình sự thì những tình tiết được ghi trong biên bản và biên bản về các hoạt động tố tụng khác (ngay cả khi trong thời hạn phục hồi điều tra) được tiến hành theo quy định của Bộ luật này có thể được coi là chứng cứ.
Khi nào cần lập biên bản điều tra
Khi tiến hành các hoạt động điều tra, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải lập biên bản theo quy định pháp luật và ghi lại đầy đủ, trung thực nội dung và trình tự diễn biến các hoạt động điều tra đã tiến hành như: hỏi cung bị can; lấy lời khai, hoạt động bắt hay khám xét, khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi cũng như xem xét dấu vết trên thân thể; thực nghiệm điều tra; đối chất hay nhận dạng…
Để biên bản được lập có giá trị là chứng cứ thì kèm theo đó sau khi lập biên bản này, Điều tra viên phải đọc lại tất cả nội dung cho những người tham gia tố tụng nghe; giải thích cho họ biết về họ có quyền được bổ sung, sửa chữa cũng như nhận xét về các nội dung mà được thể hiện trong biên bản đã được lập và phải ghi ý kiến bổ sung cũng như sửa chữa hoặc nhận xét đó của người tham gia tố tụng vào biên bản. Điều tra viên và người tham gia tố tụng cùng ký tên vào các biên bản. Nếu biên bản điều tra mà có nhiều trang (như biên bản hỏi cung hay biên bản lấy lời khai…) và ý kiến bổ sung cũng như sửa chữa hoặc nhận xét của người tham gia tố tụng được ghi ở nhiều trang khác nhau của các biên bản thì Điều tra viên và người tham gia tố tụng phải ký xác nhận vào từng điểm mà đã được sửa chữa, bổ sung hoặc có nhận xét đó.
Trong trường hợp mà người tham gia tố tụng từ chối ký vào các biên bản thì Điều tra viên phải phải ghi rõ vào biên bản về việc từ chối đó cùng với lý do người tham gia tố tụng từ chối không ký biên bản. Nếu người tham gia tố tụng vì lý do có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc vì lý do khác mà không thể ký vào các biên bản thì Điều tra viên phải ghi rõ vào biên bản lý do cụ thể người tham gia tố tụng không thể ký biên bản; Điều tra viên cùng với người chứng kiến hoạt động điều tra đó cũng cùng ký xác nhận.
Nếu người tham gia tố tụng và người chứng kiến không biết chữ thì phải thực hiện điểm chỉ vào biên bản; việc điểm chỉ được thực hiện tương tự như các quy định đối với việc ký biên bản.
Ai là người lập biên bản điều tra
Biên bản điều tra do Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên, kiểm tra viên trực tiếp tiến hành hoạt động điều tra đó lập. Người lập biên bản điều tra còn có thể là các cán bộ được phân công điều tra ở các đơn vị Bộ đội biên phòng, đơn vị Cảnh sát biển và cơ quan Hải quan, cơ quan Kiểm lâm hay các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong Công an nhân dân và Quân đội nhân dân. Nội dung và hình thức biên bản điều tra phải được phải lập theo các quy định chung tại Điều 133 Bộ luật tố tụng hình sự và các quy định khác trong Bộ luật này đối với từng loại biên bản của những hoạt động điều tra cụ thể. Hiện nay, biên bản điều tra được lập theo hệ thống các biểu mẫu tố tụng hình sự cụ thể đã được quy định thống nhất giữa các ngành tư pháp.

Quy định về biên bản điều tra
Biên bản điều tra được lập khi các chủ thể có thẩm quyền tiến hành các hoạt động điều tra, theo đó không có việc lập biên bản này khi tạm đình chỉ điều tra. Cụ thể yêu cầu về biên bản này được quy định tại Điều 178 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 như sau:
“Điều 178. Biên bản điều tra
Khi tiến hành hoạt động điều tra, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải lập biên bản theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật này.
Điều tra viên, Cán bộ điều tra lập biên bản phải đọc biên bản cho người tham gia tố tụng nghe, giải thích cho họ quyền được bổ sung và nhận xét về biên bản. Ý kiến bổ sung, nhận xét được ghi vào biên bản; trường hợp không chấp nhận bổ sung thì ghi rõ lý do vào biên bản. Người tham gia tố tụng, Điều tra viên, Cán bộ điều tra cùng ký tên vào biên bản.
Trường hợp Kiểm sát viên, Kiểm tra viên lập biên bản thì biên bản được thực hiện theo quy định tại Điều này. Biên bản phải được chuyển ngay cho Điều tra viên để đưa vào hồ sơ vụ án.
Việc lập biên bản trong giai đoạn khởi tố được thực hiện theo quy định tại Điều này”.
“Điều 133 Biên bản
1. Khi tiến hành hoạt động tố tụng phải lập biên bản theo mẫu thống nhất.
Biên bản ghi rõ địa điểm, giờ, ngày, tháng, năm tiến hành tố tụng, thời gian bắt đầu và thời gian kết thúc, nội dung của hoạt động tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng hoặc người liên quan đến hoạt động tố tụng, khiếu nại, yêu cầu hoặc đề nghị của họ.
2. Biên bản phải có chữ ký của những người mà Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định. Những điểm sửa chữa, thêm, bớt, tẩy xóa trong biên bản phải được xác nhận bằng chữ ký của họ.
Trường hợp người tham gia tố tụng không ký vào biên bản thì người lập biên bản ghi rõ lý do và mời người chứng kiến ký vào biên bản.
Trường hợp người tham gia tố tụng không biết chữ thì người lập biên bản đọc biên bản cho họ nghe với sự có mặt của người chứng kiến. Biên bản phải có điểm chỉ của người tham gia tố tụng và chữ ký của người chứng kiến.
Trường hợp người tham gia tố tụng có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc vì lý do khác mà không thể ký vào biên bản thì người lập biên bản đọc biên bản cho họ nghe với sự có mặt của người chứng kiến và những người tham gia tố tụng khác. Biên bản phải có chữ ký của người chứng kiến”.
Biên bản về hoạt động điều tra trong vụ án hình sự là một trong những nguồn của chứng cứ quan trọng. Chính vì vậy, chúng luôn luôn có giá trị để chứng minh về một hay nhiều tình tiết nào đó của vụ án hình sự. Để bảo đảm các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện thực sự đúng đắn và thống nhất các quy định của pháp luật khi tiến hành các hành vi cũng như hoạt động tố tụng khác nhau, các điều luật trên của Bộ luật tố tụng hình sự quy định các cơ quan này phải lập biên bản, đồng thời các biên bản phải đảm bảo đúng về nội dung cùng như cả hình thức, trình tự và thành phần có thẩm quyền lập.
Trên đây là những thông tin tư vấn về biên bản điều tra vụ án hình sự theo quy định tố tụng hình sự mà bạn cần biết. Nếu các bạn có bất cứ những thắc mắc nào thì đừng quên liên hệ ngay tới Luật hình sự để được giải đáp kịp thời nhé./